Yếu tố
|
Vấn đề có thể xảy ra
|
Giải pháp
|
• Loại thiết bị
• Thời gian lưu thuỷ lực HDT
(giờ)
|
• Quá trình sục khí và lắng xảy ra trong thiết bị được thiết
kế kém
• Không đủ thời gian lưu thuỷ lực (HDT) đối với cả quá trình sục khí và lắng
• Hàm lượng TSS cao trong dòng thải ở bể lắng thứ cấp
|
• Tách dòng vào quá tải đến bể chứa (nếu có)
và cố gắng ổn định tốc độ dòng chảy bằng cách sử dụng thời gian ban đêm.
• Xem xét lại các giới hạn và có các mục tiêu xử lý mới.
• Xác định nguồn thấm qua hoặc dòng chảy trong các mùa mưa và quyết định phân dòng trong khi có mưa.
• CHÚ Ý VỀ MẶT KỸ THUẬT:
Đối với bể Aeroten:
– HDT (giờ) = V / (Q + R)
Đối với bể lắng:
– HDT (giờ) = 2 – 3 giờ, và OFR = 1 – 1,5
m/giờ
|
• Tải trọng thuỷ
lực
• Tải trọng chất hữu cơ
• Tỉ lệ chất dinh dưỡng – vi sinh vật F/M
|
• Hàm lượng BOD
hoà tan trong dòng thải ở bể lắng bị cao
• Hiệu suất chuyển hoá chất ô nhiễm hữu cơ thấp
• Biofloc = pin floc
|
• Kiểm tra cơ sở của quá trình bùn hoạt hoá:
– F / M = ( Q . BOD5) / (VSSML . V) ngày-1
– F / M = các giá trị thực nghiệm đã xác
định đối với mỗi ngành công nghiệp
– F / M = 0,2 đến 0,7 ngày-1 đối với nước thải sinh hoạt
– F / M = 0,1 ngày-1 đối với quá trình sản xuất giấy và bột giấy
– F / M = 0,8 đến 1,0 ngày-1 đối với các cơ
sở sản xuất bơ sữa
– F / M = 0,01 ngày-1 đối với nước rác
• Kiểm tra hàm lượng các chất hữu cơ của hỗn hợp lỏng - rắn:
– VSSML: phải cao hơn 2 000 mg/l
– Sự có mặt của sinh khối (vi khuẩn & động vật nguyên sinh (protozoa))
|
• Công suất cấp khí
|
• Sục khí không đủ
• Sục khí quá nhiều, tốn kém
|
• Theo kinh nghiệm: Yêu cầu Oxy được thiết kế
trong khoảng 1 đến 1,4 kg O2 cho kg BOD
• Tuy nhiên, sẽ rất hữu ích khi tiến hành kiểm tra hàng ngày hàm lượng oxy hoà tan (DO) ở một số vị trí của bể Aeroten. Giá trị trung bình cần bằng khoảng 2 mg/l (giữa 1 và 2).
• Trên 2 mg/l = lãng phí năng lượng
• Dưới 2 mg/l = có nguy cơ xảy ra quá trình yếm khí và xuất hiện bông sinh học dạng sợi
(có đặc tính lắng kém)
|
• pH
|
• Sự phân rã sinh khối
(bùn hoạt tính)
|
• Kiểm tra hàng ngày pH của dòng vào để đối phó ngay với việc tăng hoặc giảm pH, có thể là do dòng chảy vào hệ thống không hợp pháp
• pH axit (nhỏ hơn 6) có thể điều chỉnh bằng vôi hoặc soda khan
• pH kiềm (lớn hơn 8,5) có thể điều chỉnh bằng
H3PO4 hoặc H2SO4 . Sử dụng axit photphoric thì tốt hơn nhưng phản ứng chậm hơn.
|
• Các chất dinh dưỡng
|
• Sự tăng nhanh bông sinh học dạng sợi
• Đặc tính lắng đọng kém của bùn
|
• Thêm chất dinh dưỡng vào dung dịch hỗn hợp bằng cách định lượng trong dòng vào:
– Ure (NH2)2CO hoặc amoniăc và P2O5
hoặc H3PO4
– Duy trì cân bằng BOD5 / N tổng / Ptổng
bằng 100 / 5 / 1 trong dòng chảy vào
|
• Tỉ lệ tuần hoàn bùn (Bùn hoạt tính tuần hoàn, RAS)
|
• Tỉ lệ tuần hoàn không đủ hoặc rời rạc làm giảm hiệu suất xử lý
|
• Thực hiện quá trình để kiểm tra tỉ lệ tuần hoàn bùn, như một trong các điều sau:
– một tỉ lệ không đổi, nghĩa là R (m3/ngày)
= không đổi
– tỉ lệ không đổi R / Q
– một cách tiếp cận lớp bùn thứ cấp ở điểm gốc, duy trì ổn định hàm lượng
VSSML (lượng sinh khối không đổi) và tối
ưu hoá việc thải bùn thứ cấp (bùn dư)
• Hai giải pháp đầu chỉ thích hợp khi có các
điều kiện ổn định: tốc độ dòng chảy không đổi hoặc tải trọng hữu cơ của dòng vào không đổi. Những điều kiện này rất ít gặp đối với các
dòng thải công nghiệp.
• Quá trình thứ ba đòi hỏi phải có các phân
tích trong phòng thí nghiệm hàng ngày và các tính toán tối thiểu (xem các giải thích sau).
|
• Thời gian lưu tế
bào trung bình
• Bùn hoạt tính thải (WAS)
|
• Sinh khối hoạt tính quá ít trong hỗn hợp lỏng -
rắn (VSSML thấp)
• Bùn hoặc bông sinh học bị
khoáng hoá nhiều
(bùn đen)
|
• Cần tính toán lượng bùn hoạt tính thải (WAS)
dựa vào phương pháp tính toán đã được chứng minh đúng (xem các giải thích sau)
• Thời gian lưu tế bào trung bình cần được
điều chỉnh theo các kết quả kiểm tra sinh khối trên kính hiển vi (đặc biệt là các động vật nguyên sinh, xem các hình sau). Thời gian lưu
tế bào trung bình thường là 5 – 10 ngày, đôi khi 15 ngµy
|
• Sự có mặt của các vi khuẩn dạng sợi
|
• Lắng thứ cấp: Bùn trương nở do tăng trưởng vi khuẩn dạng sợi quá mức và để xảy ra vấn đề trong bể lắng, bùn dâng lên hoặc kết thành khối, nước thải sau xử lý bị vẩn đục, kết bông điểm nhỏ và kết bông tản mạn
• Bể Aeroten: sự tăng trưởng quá mức vi khuẩn dạng
sợi làm nổi bọt (mùi,
có thể ảnh hưởng đến sức khoẻ con người)
|
• Khi bắt đầu nhận thấy có sự tăng trưởng của các vi khuẩn dạng sợi, có thể là không quá muộn để sửa chữa tình trạng này bằng cách:
– (a) tăng sục khí nếu sục khí không dư,
– (b) định lượng các chất dinh dưỡng N và P nếu tỉ lệ BOD/N tổng/ P tổng không đạt mức 100/5/1
- (c) phân tích dòng vào để phát hiện các chất gây ô nhiễm ức chế như kim loại nặng hoặc các chất khác và kiểm tra nguồn chảy tràn của
những chất gây ô nhiễm này. Hành động ngay
để ngăn chặn những chất ức chế này
• Khi không thể ngăn chặn sự tăng trưởng của các vi khuẩn dạng sợi thì phải đóng hệ thống bùn hoạt bính bằng clo hoá (oxy hoá) sinh khối hiện có. Khởi động
lại hệ thống này bằng sinh khối mới (ví dụ sinh khối lấy từ hệ thống xử lý khác).
• Ngăn ngừa sự cố: quan sát bông sinh học (bùn) trên kinh hiển vi thông thường để phát hiện sự bắt đầu
tăng trưởng quá mức (xem các trang sau)
• Ngăn chặn các điều kiện kích thích sủi bọt sợi: (a)
có dầu, chất bôi trơn và chất béo trong dòng vào, (b) tuần hoàn váng bên trong hệ thống thay cho việc loại bỏ nó ra khỏi hệ thống
|
CƠ HỘI KHÔNG TỰ ĐẾN MÀ LÀ DO CHÚNG TA TỰ TÌM RA! HÃY CÙNG TÔI TẠO DỰNG CƠ HỘI CHO CHÚNG TA!
Thứ Sáu, 18 tháng 9, 2009
BÙN HOẠT TÍNH - VẬN HÀNH VÀ CÁCH KHẮC PHỤC SỰ CỐ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét